Năm 2011, kỷ niệm 67 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến "Anh bộ đội Cụ Hồ". Hình tượng "Anh bộ đội Cụ Hồ" trong thơ kháng chiến là hình tượng hiện lên rất đẹp:
"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo"
(Lên Tây Bắc- Tố Hữu)
"Hoan hô Anh Giải phóng quân
Kính chào Anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn Anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời"
(Bài ca Xuân 68- Tố Hữu ).
"Nhìn quanh, núi đứng mây bay
Võng anh Giải phóng rừng lay nắng chiều"
(Nước non ngàn dặm - Tố Hữu)
Cái đẹp trước hết họ là những người nông dân mặc áo lính. Họ tự cầm súng để tự giải phóng mình và giai cấp, đồng bào mình. Họ trở thành đồng chí của nhau trong cuộc chiến đấu gay go quyết liệt với kẻ thù.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù trang bị thiếu thốn, nhưng họ vẫn lạc quan yêu đời, vần thương nhau trong nghĩa tình đồng đội:
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm bàn tay"
(Đồng chí- Chính Hữu)
"Lột sắt đường tàu
Rèn thêm rao kiếm
Áo vải, chân không
Đi lùng giặc đánh"
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Đến thời kỳ chống đế quốc Mỹ, chiến tranh càng ác liệt, nồi gian khổ, khó khăn càng chồng chất, sự hy sinh mất mát càng tăng lên:
"Khẩu súng trường tinh vi và ngắn lại
Đường chúng tôi ra trận lại dài thêm
Gạo mang đủ mười ngày còn mang súng
Còn dành mang thuốc
Còn dành mang nhau
Mang bao nhiêu tai biến dọc đường
Mỗi quyển sách nặng bằng năm viên đạn
Chúng tôi dành mang đạn trước tiên"
(Đường tới thành phố- Hữu Thỉnh)
Họ còn phải mang cả bao ni lông để phòng khi mình hoặc đồng đội hy sinh thay quan tài khi chôn cất. Gian khổ là thế, hy sinh là thế, nhưng trên đầu họ luôn có chiếc mũ gắn ngôi sao vàng năm cánh. Chiếc mũ của anh bộ đội đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam:
"Anh đi bộ đội sao sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”
(Núi đôi - Vũ cao)
"Ôi cái mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành
Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh
Mà xông xáo, mà tung hoành ngang dọc
Mạnh hơn tất cả đạn bom, làm run sợ cả Lầu năm góc
Ta muốn hỏi Trường Sơn
Có đỉnh nào cao hơn
Chiếc mũ kia của chủ nghĩa anh hùng cách mạng?”
(Bài ca Xuân 68 - Tố Hữu)
Cái đẹp thứ hai là họ luôn luôn lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng:
- "Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu"
(Nhớ - Hồng Nguyên)
"Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời"
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm)
"Ngày mai sẽ là ngày xum họp
Đã toả sáng những tâm hồn cao đẹp
Nhưng vẫn còn ngời trên những mắt lá si
Và người chồng ấy đã ra đi... "
(Cuộc chia ly mầu đỏ - Nguyễn Mỹ)
Niềm lạc quan ấy là bản chất người lính. Họ ra trận mà thấy "Đội ngũ ta đi. dài như tiếng hát" (Chính Hữu), "đánh Mỹ là một ngày hội lớn" (Huy Cận), "Đường ra trân mùa này đẹp lắm" (Phạm Tiến Duật). "Đường ta đi đẹp vô cùng. Ngàn năm luyên bước anh hùng đấy chăng?" (Tố Hữu).
Tình đồng đội là nét đẹp nhất trong thơ kháng chiến. Đó là tình người trong những thời khắc quan trọng nhất. Thời khắc giữa cái sống và cái chết. Họ đến với nhau để truyền thêm hơi ấm, thêm nghị lực cho nhau giữa "rừng hoang sương muối" (Chính Hữu), cũng như "Bát cơm sẻ nửa, chăn sui dắp cùng" (Tố Hữu). Tình đồng đội thiêng liêng, là nguồn động viên, là tạo nên sức mạnh
"Đạn bom, bão lụt, cơ hàn
Chết đi lại sống, hết tàn lại tươi
Thuỷ chung, vẫn đậm tình người
Cắn đôi hạt muối, chung đời cháo rau
Uống cùng viên thuốc chia đau
Quên mình chia lửa, cứu nhau chia hầm"
(Nước non ngàn dặm - Tố Hữu)
"Tao nhớ mắt mày đen màu đen che chở
Những đêm Trường Sơn
Khi ánh sáng rừng chỉ là vệt lân tinh
Mày lặng lẽ mang giùm tao bao gạo
Cớt sốt ập choáng người, lao đảo
Vẫn tay mày dìu đỡ tao đi"
(Thanh Thảo)
Điều đáng nói đến nhất và cũng là điều đáng quý nhất là họ"chia lửa" cho nhau mỗi khi ra trận. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã có biét bao người lính ngã xuống cho mảnh đất Việt Nam hình chữ S. Trong mất mát, đau thương, người lính càng hiểu thêm giá trị của mình, của đồng đội mình khi hiến dâng cho Tổ quốc:
"Ai viết tên em thành liệt sỹ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau, anh gọi em: đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng"
(Núi Đôi - Vũ Cao)
"Đắp cho anh nắm đất mặn nơi này
Nơi anh ngã muối ngấm vào vết đạn
Xót thịt, xót xương, xót người nằm xuống
Thuỷ triều lên, nấm mộ cũng ngập chìm"
(Nấm mộ trong rừng đước - Nguyễn Duy)
Như trên đã nói, người lính xuất phát từ người nông dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, Cho nên, dù ở đâu họ cũng luôn được hơi ấm của nhân dân, đùm bọc, chở che. Anh Vệ quốc quân xa mẹ nhưng đã có bao bà mẹ quý anh như con đẻ:
"Bao bà cụ từ tâm làm mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi cho nhà con ngơi" (Bầm ơi - Tố Hữu)
Anh Giải phóng quân tìm thấy tình người qua hơi ấm ổ rơm:
"Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác, gầy gò"
(Hơi ấm ổ rơm - Nguyễn Duy)
Và cũng tìm thấy tình người trong mỗi bữa ăn trước giờ ra trận:
"Bát cơm gạo mùa trắng muốt bốc hơi
Thóc hợp tác vừa ưu tiên cân đối
Mẹ ngắm con ăn, mẹ chờ mẹ xới
Đĩa thịt gà mẹ gắp mãi cho con"
(Mẹ - Lương Thành Thạo) Chiến tranh đã lùi xa, thơ kháng chiến đã làm ngời sáng lên hình tượng đẹp nhất, gây xúc động mạnh mẽ nhất trong tâm trí người đọc. Đó là hình tượng người lính, hình tượng "Anh bộ đội Cụ Hồ" đã "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".Nguồn Bài: |