Tháng cuối đông năm 1965, sau lễ Nô - en, tiết đại hàn buốt giá. Giặc Mỹ leo thang dùng máy bay ra ném bom miền Bắc. Tuy ở nơi sơ tán vùng nông thôn hẻo lánh thuộc xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Hà nhưng Ty văn hoá Nam Hà vẫn giữ cái nếp làm báo tết.Gọi là báo nhưng thực ra nó chỉ là một tờ tập san khổ 19 x 27, trên dưới 40 trang, ra ba tháng một kỳ. Tuy vây, người viết nào đăng một bài vào số tết cũng là một vinh hạnh, vui lâng lâng khó tả.
Dạo ấy, lại có lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh thi hào Nguyễn Du. Dự định của lãnh đạo Ty là phải có những bài viết thật trang trọng về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du tiên sinh. Họ lập hẳn một ban làm báo tết và một hội đồng duyệt hẳn hoi.
Những ngày này, không hiểu có điều gì thôi thúc mà Nguyễn Bính rất phấn khởi, ômg viết đam mê như kẻ nhập đồng. Chỉ trong dăm bẩy ngày gì đó, ông viết xong hai bài thơ, để sau này trở thành những tác phẩm “ để đời” như cách nói của chúng ta hôm nay. Bài trước có tên là Bài ca quê hương với những câu chữ bay bổng mà cuốn quyện như keo mật :
“Quê hương tôi có cây bầu cây nhị.
Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang
Có cô Tấm náu mình trong quả thị
Có người em may túi đựng ba gang
Quê hương tôi có ca dao tục ngữ
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi
Mỗi đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi”
Bài sau có tên Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều. Mọi người trong cơ quan cũng biết Nguyễn Bính coi Nguyễn Du là thần tượng số một. Nguyễn Bính thuộc Truyện Kiều làu làu. ông viết xong bài thơ cứ úp úp mở mở khoe với anh em trong cơ quan nhưng lại không cho ai đọc trước, muốn gây bất ngờ ở “ phút 89”. Hôm đọc duyệt, ông Trưởng Ty Chu Văn- Chủ tịch hội đồng cứ dương đôi mục kỉnh về phía Nguyễn Bính rồi nói :
- Nghe anh em xì xào rằng anh Bính có bài thơ về Nguyễn Du hay lắm, mời anh đọc cho hội đồng cùng nghe.
Nguyễn Bính cầm trang bản thảo viết tay rất kỹ lưỡng, những dòng chữ đều đặn, ngay ngắn, không dập xoá, đứng lên đọc với một ngữ điệu hết sức truyền cảm:
Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều
Cảo thơm lần dở trước đèn
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa
Trăm năm trăm cõi người ta
Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau
Khen tài nhả ngọc phun châu
Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình.
Mấy lời kỳ cựu đinh ninh
Rằng tài nên trọng mà tình nên thương
Khen rằng giá đáng Thịnh Đường
Thì trao giải nhất, chi nhường cho ai
Gẫm âu người ấy, báu này
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Nặng vì chút nghĩa xưa sau
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
Thương vui bởi tại lòng này
Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời
Lòng thơ lai láng bồi hồi
Tưởng người nên lại thấy người về đây.
Khác với âm hưởng rộn ràng vui tươi trong Bài ca quê hương, bài Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều hay thì hay thật, hay đến độ cả hội đồng lặng đi một lát, nhưng cảm hứng chủ đạo toàn bài có gì đó như vận vào số phận long đong ghềnh thác của Nguyễn Bính.
Một thành viên trong hội đồng nói :
- Có những câu sai sái anh Bính ạ.
Nguyễn Bính đã ngồi xuống lại đứng lên phẩy tay một cái:
- Các ông đừng duy tâm quá. Thơ hay là được. Tôi chính thức nộp bài này cho báo tết. Một câu một chữ không được sửa!
Mọi người nhìn nhau đắn đo, suy tính. Đăng thì hơi ngần ngại, nhưng bỏ thì tiếc. Cuối cùng thì quyết định đăng cũng là muốn có thêm mấy đồng nhuận bút để Nguyễn Bính tiêu tết nữa. Lúc nào Nguyễn Bính cũng túng bấn, thiếu tiền.
Tập san tết ra được mấy ngày, Nguyễn Bính chưa hết bồi hồi sung sướng vì bài thơ tâm huyết được đăng thì ông đã ra đi vào cõi vĩnh hằng vào đúng đêm 30 tết. Có lễ cái khoảnh khắc con tim ông bắt đầu ngừng đập, vong hồn cụ Nguyễn Tiên Điền đã về đón ông thật nên đã Linh báo”khiến ông thốt ra lời thơ “ Tưởng người nên lại thấy người về đây” ? Cái buổi sáng người ta đưa ông ra đồng cũng giống hệt như khung cảnh “ Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời”. Và bài thơ Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều đã trở thành “ một thiên tuyệt bút gọi là để sau” đúng như trong bài thơ ông viết. Nguồn Bài: |